Ngày 30/7, tại Hà Nội, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ NN-MT) đã tổ chức hội thảo “Đánh giá, tham vấn các địa phương về kết quả thực hiện và các kiến nghị, đề xuất của Bộ, ngành và địa phương trong quá trình thực hiện Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu (NAP) và Hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu (M&E)”.
Tại hội thảo, đại diện các Bộ, ngành, địa phương đã cùng trao đổi, thảo luận về những thuận lợi, khó khăn và thách thức trong quá trình triển khai NAP và M&E. Từ đó, đưa ra các định hướng, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách, tăng cường hiệu quả thực hiện, giám sát và đánh giá các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH).
Yêu cầu thích ứng ngày càng cấp bách
Với đặc điểm địa lý có bờ biển dài, Việt Nam thường xuyên phải đối mặt với thiên tai, thảm họa thiên nhiên và là một trong số những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu (BĐKH). Những năm qua, tại Việt Nam đã ghi nhận 20/21 loại hình thiên tai, thảm họa thiên nhiên xảy ra trên phạm vi cả nước, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản, đặc biệt với các nhóm dân cư có tính dễ bị tổn thương cao.
Hơn bao giờ hết, vấn đề gia tăng khả năng chống chịu và thích ứng BĐKH trở thành vấn đề sống còn đối với Việt Nam. Theo bà Mai Kim Liên, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu: Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia có trách nhiệm, thực chất và hiệu quả các điều ước, cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu toàn cầu cũng như ban hành và triển khai nhiều chính sách, chương trình, hành động về BĐKH. Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (NAP) tại Quyết định số 1055/QĐ-TTg ngày 20/7/2020.
Đây là cơ sở để các Bộ, ngành địa phương xây dựng và triển khai các hoạt động thích ứng trong phạm vi quản lý. Năm 2024, Kế hoạch tiếp tục được cập nhật tại Quyết định số 1422/QĐ-TTg ngày 19/11/2024.
Quang cảnh hội thảoĐể đánh giá hiệu quả, Chính phủ cũng đã ban hành Hệ thống giám sát và đánh giá các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu ở cấp quốc gia (Hệ thống M&E) ” tại Quyết định số 148/QĐ-TTg ngày 28/1/2022. Hệ thống nhằm giám sát, đánh giá hiệu quả các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu; cung cấp cơ sở cho việc quản lý, điều phối và thực hiện các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu. Điều này đã đặt nền móng quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về thích ứng với BĐKH.
Về những kết quả triển khai NAP, bà Nguyễn Thị Thanh Nga, Trưởng phòng Thích ứng biến đổi khí hậu, Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Quá trình triển khai Kế hoạch đã có nhiều thành tựu rõ nét trong việc củng cố khung pháp lý, triển khai các chương trình, dự án thích ứng đa ngành và huy động nguồn lực trong nước và quốc tế.
Hệ thống pháp luật phục vụ thích ứng với BĐKH được củng cố với Luật Bảo vệ môi trường 2020 (Chương VII), Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến 2050, và các thông tư hướng dẫn lồng ghép thích ứng vào quy hoạch phát triển. Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cùng nhiều bộ, ngành khác đã ban hành các quy chuẩn kỹ thuật về hạ tầng, sản xuất, cũng như hướng dẫn quản lý rủi ro khí hậu.
Ở cấp địa phương, tất cả các tỉnh, thành phố đã tích hợp yếu tố biến đổi khí hậu vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và xây dựng các kịch bản ứng phó đặc thù theo từng vùng.
Các Bộ, ngành đã chủ động lồng ghép các nhiệm vụ thích ứng vào đối với các lĩnh vực dễ bị tổn thương như nông nghiệp, cơ sở hạ tầng giao thông, tài nguyên nước và y tế công cộng, thể hiện nỗ lực quyết tâm lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào các ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội.
Hợp tác quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng. Việt Nam đã phối hợp với Hà Lan, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Khí hậu xanh, Quỹ Thích ứng… triển khai dự án về quản lý tài nguyên nước, phát triển đô thị bền vững, nâng cao năng lực giám sát thiên tai. Công tác đào tạo, truyền thông được chú trọng, với nhiều khóa tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ Trung ương và địa phương, góp phần tăng cường nhận thức, kỹ năng và khả năng triển khai các giải pháp thích ứng.
Các đại biểu tham dự hội thảoĐể thích ứng trở thành động lực phát triển
Về nguồn lực, Khoảng 40% nguồn lực cho NAP đến từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, Việt Nam đã huy động gần 2 tỷ USD từ các quỹ và tổ chức quốc tế, trong đó có Quỹ Khí hậu Xanh và Ngân hàng Thế giới. Dư nợ tín dụng xanh đạt hơn 620.000 tỷ đồng (năm 2023), chủ yếu cho năng lượng tái tạo và nông nghiệp bền vững.
Dù đạt nhiều tiến bộ, chỉ 74% nhiệm vụ NAP đang được triển khai, trong khi tỷ lệ hoàn thành còn khiêm tốn. Đặc biệt, nhiệm vụ về lồng ghép giới và hòa nhập xã hội (GESI) chưa thực sự toàn diện, chỉ 3/15 bộ và 12/44 địa phương đề cập trong báo cáo triển khai. Việc phân bổ nguồn lực chưa đồng đều, thủ tục huy động vốn quốc tế còn phức tạp, và năng lực thực hiện giữa các địa phương có sự chênh lệch. Riêng về vấn đề này, thời gian tới, Cục Biến đổi khí hậu sẽ ban hành sổ tay hướng dẫn lồng ghép bình đẳng giới và hòa nhập xã hội vào quá trình xây dựng và triển khai hoạc động thích ứng BĐKH ở Việt Nam.
Theo Cục Biến đổi khí hậu, đặc trưng của hoạt động thích ứng là hiệu quả trong dài hạn nên chưa thể đánh giá rõ ràng kết quả ngay. Thời gian tới, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục tăng cường phối hợp liên ngành và liên vùng, mở rộng hợp tác quốc tế, thúc đẩy khu vực tư nhân tham gia, đẩy nhanh chuyển giao công nghệ, và đặc biệt là lồng ghép hiệu quả vấn đề giới, xã hội trong toàn bộ quá trình triển khai NAP. Điều này sẽ biến thích ứng khí hậu thành động lực phát triển bền vững, đồng thời nâng cao năng lực chống chịu trước các tác động ngày càng gay gắt của khí hậu cực đoan.