Sign In

TS Lê Kiên Thành: Lịch sử không đơn giản là những ngày tháng đã trôi qua

15:30 30/04/2025

Chọn cỡ chữ A a  

'Lịch sử có ý nghĩa như tài nguyên vô giá với mỗi dân tộc', đó là quan niệm của tiến sĩ Lê Kiên Thành nhân kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước.

 

Tiến sĩ Lê Kiên Thành qua nét vẽ H.Lộc.

Tiến sĩ Lê Kiên Thành qua nét vẽ H.Lộc.

Thưa tiến sĩ Lê Kiên Thành! Nhắc đến ông, nhiều người không chỉ biết ông là con trai của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn (1907-1986) mà còn là một trí thức luôn suy tư về sự phát triển của đất nước. Ngay bây giờ, giữa không khí tưng bừng kỷ niệm 50 năm non sông liền một dải, ông có tâm trạng như thế nào?

Tôi nhớ thời khắc nửa thế kỷ trước. Lúc ấy mờ sáng 30/4/1975 ở Liên Xô, tôi vẫn đang ngủ ở ký túc xá Học viện Kỹ sư không quân Giucopxky, thì nghe tiếng đập cửa dồn dập. Rồi bạn bè du học sinh các nước Cu Ba, Mông Cổ, Rumani, Ba Lan… ùa vào phòng, reo ầm lên: “Việt Nam chúng mày thống nhất rồi”. Tôi cứ đứng sững ra, cái cảm giác rất khác lạ, muốn cười không cười được, muốn khóc không khóc được, mà muốn nói cũng không nói được. Tôi lơ lửng như một kẻ mắc kẹt trong giấc mộng. Thật ư, thống nhất rồi ư?

Có lẽ những người hôm nay khó hiểu bối cảnh lúc ấy. Chúng tôi sống ở miền Bắc, “thống nhất” luôn là mong ước, nhưng rất xa xôi, thậm chí rất viển vông. Mỗi khi muốn từ chối một điều gì, thì câu cửa miệng là “đợi thống nhất nhé”. Vậy mà, thống nhất rồi, thống nhất như một phép màu.

Tôi ngẩn ngơ nửa thực nửa mơ về cái tin thống nhất, vì thuở đó phương tiện truyền thông rất hạn chế. Mãi đến khi lên giảng đường, ông giáo sư người Nga chúc mừng tôi bằng một cái vỗ vai thật mạnh “Tuyệt lắm”, thì tôi mới dám chắc chắn chiến tranh đã chấm dứt, Tổ quốc Việt Nam đã thu về một mối.

Hình ảnh Sài Gòn sau cột mốc lịch sử ấy, cho ông ấn tượng gì đầu tiên?

Năm 1976, tôi mới được về nước, và thực tập ở sân bay Tân Sơn Nhất. Khi nhìn hàng trăm chiếc máy bay nằm la liệt dưới phi trường, tôi choáng ngợp và sững sờ. Tôi từng được đào tạo tại Trường Lái máy bay Kratxnoida và chưa từng thấy một sân bay nào ở Liên Xô có số máy bay nhiều như vậy. Tính cả máy bay dân dụng, máy bay trực thăng và máy bay chiến đấu, thì Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 4.000 chiếc vào năm 1975, đứng thứ ba thế giới, chỉ sau Mỹ và Liên Xô.

Cùng thời điểm, không quân Việt Nam ở miền Bắc chỉ có khoảng 20 chiếc máy bay, khi xuất kích chỉ bay một hoặc hai chiếc, chứ có khi nào bay một dàn chục chiếc đâu. Riêng về không quân, Sài Gòn có một kho khí tài khổng lồ. Vậy thì tại sao người Mỹ chấp nhận bỏ lại tất cả để rút lui, để chấp nhận thua cuộc? Đó là câu hỏi lớn mà tôi mất nhiều năm để trả lời về chiến thắng của dân tộc Việt Nam chúng ta.

Đáp án của ông có được tham khảo từ cố Tổng Bí thư Lê Duẩn chăng?

Có chứ. Tôi trao đổi với cha tôi rất nhiều lần, và tôi đọc rất nhiều tài liệu từ hai phía. Nhà quân sự lừng lẫy nhân loại Napoléon Bonaparte (1769-1821) đúc kết một câu rất lạnh lùng: “Trong chiến tranh, vật chất thắng vật chất, và Chúa đứng về phía kẻ mạnh”. Nghĩa là bên nào muốn chiến thắng, phải có vật chất lớn hơn, chứ không thể trông chờ vào chính nghĩa. Vật chất có thể kiểm đếm được, thì Mỹ gấp nhiều lần Việt Nam, họ ở thế thượng phong so với chúng ta. Chính ngoại trưởng Mỹ Kissinger (1923-2023) đã nói thẳng với Trưởng phái đoàn Việt Nam Lê Đức Thọ (1911-1990) trước khi đàm phán Paris: “Các ông tự hào về lòng yêu nước và sự can đảm, thì người Mỹ có đủ sức mạnh để chà đạp hai thứ ấy”.

Sau chiến thắng, không ít người Việt Nam cứ hồn nhiên cho rằng, do Mỹ kém chúng ta “to gan hơn béo bụng”. Họ mà kém thế nào được, họ vẫn bá chủ trên mọi chiến trường trong thế kỷ 20. Cho nên, nhiều chuyên gia Mỹ vẫn vô cùng thắc mắc về kết cục chiến tranh Việt Nam. Ngoài sự viện trợ của các quốc gia trong phe xã hội chủ nghĩa, thì Việt Nam phải có vật chất độc đáo để đáp ứng nguyên lý chiến tranh “vật chất thắng vật chất” chứ.

Sau 20 năm thống nhất đất nước, tôi có dịp sang Mỹ. Một giáo sư Mỹ thổ lộ: “Chúng tôi rất khâm phục Việt Nam. Chẳng giấu gì ông, tôi từng là nhân viên cơ quan tình báo trung ương Mỹ CIA trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tôi đã nghĩ ngợi mà không sao hiểu được lý do để Việt Nam thắng Mỹ. Ông có thể giải thích cho tôi không?”. Tôi đã thưa lại: “Tôi chưa từng trực tiếp tham gia một trận bom đạn nào, nhưng tôi là người Việt Nam có ý thức về vị trí của dân tộc mình. Tôi xin chia sẻ với ông. Xét về giá trị lõi của nguyên lý chiến tranh, thì Việt Nam lép vế trước Mỹ. Tuy nhiên, chúng tôi tự tin chiến đấu trên quê hương chúng tôi, còn các ông phải thử thách yếu tố viễn chinh. Tốc độ trong chiến tranh, đóng vai trò rất quan trọng. Người Mỹ chế tạo máy bay để di chuyển từ điểm A đến điểm B mất 15 phút, người Việt Nam mất nửa ngày để đi bộ từ điểm A đến điểm B.

Thế nhưng, các ông chưa xuất phát thì chúng tôi đã đến đích, vì chúng tôi có người ở A và cũng có người ở B. Vật chất tuyệt đối để Việt Nam cầm cự và lấn lướt Mỹ là tốc độ vô hạn. Mỹ có thể chế tạo máy bay đạt tốc độ hàng nghìn km/ giờ, chứ làm sao chế tại được máy bay đạt tốc độ vô hạn. Trong chiến tranh vệ quốc, không phải người Việt Nam nào mặc quân phục bộ đội mới là người lính, mà anh thợ cày cũng là người lính, chị dệt vải cũng là người lính, em bé chăn trâu cũng là người lính. Chúng tôi cùng lúc, vừa chặn các ông ở điểm A vừa đánh các ông ở điểm B. Chúng tôi gọi đó là chiến tranh nhân dân”.

Nghe tôi phân tích, ông giáo sư Mỹ, cựu nhân viên CIA đã đứng dậy bắt tay: “Việt Nam các bạn xứng đáng có được hòa bình”.

Tiến sĩ Lê Kiên Thành tuổi 70. Ảnh: Lê Thiếu Nhơn.

Tiến sĩ Lê Kiên Thành tuổi 70. Ảnh: Lê Thiếu Nhơn.

Câu chuyện chiến tranh nhân dân đầy kiêu hãnh, nhưng cũng đầy hy sinh...

Đầu năm 1973, tôi sang Liên Xô du học, có mang theo mấy tờ báo Việt Nam. Một người bạn Tiệp Khắc (sau này là giáo sư nổi tiếng ở Praha) khi nhìn thấy hình ảnh một thiếu niên du kích Nam bộ trên tờ báo, đã bình luận: “Khẩu súng dài hơn con người, chiến công nhiều hơn tuổi tác”. Câu nói ấy phản ánh đầy đủ sự gan dạ và sự anh hùng của người Việt Nam trong chiến tranh.

Người Việt Nam sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, nhưng chúng ta không chủ trương cảm tử mọi lúc mọi nơi. Chúng ta chọn cách tránh cái chết để trường kỳ kháng chiến. Và khi cần cảm tử thì người Việt Nam quyết liệt hơn cả sự cảm tử.

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Tư Cang - Nguyễn Văn Tàu, nguyên Cụm trưởng Cụm Tình báo chiến lược H63, đã kể cho tôi nghe một chi tiết ấn tượng. Khi lên kế hoạch tổng nổi dậy Mậu Thân năm 1968, các lực lượng chủ lực đều đã bố trí xong, thì cấp trên yêu cầu phải có một tiểu đội đánh thẳng vào Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn. Xung quanh ông Tư Cang chỉ còn 14 người, không phải lính chiến đấu, mà chỉ là những người làm giao liên và tiếp tế.

Ông Tư Cang thông báo: “Có một nhiệm vụ quan trọng, cần 12 người, chỉ có đi không có về”. Tất cả đều giơ tay xung phong. Ông Tư Cang chọn 12 người, thì hai người không được chọn liền tuyên bố: “Không cho chúng tôi đi, thì chúng tôi tự vác súng ra đường chiến đấu”. Vậy là đành để 14 người cùng đánh vào Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn. 14 người tự làm lễ truy điệu cho nhau trước giờ nổ súng, và không có ai trở về.  

 

Con đường đến ngày thống nhất của chúng ta, phải đánh đổi rất nhiều sự quả cảm và sự mất mát...

Sau tổng nổi dậy Mậu Thân năm 1968, Việt Nam lại có thêm một “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 cực kỳ ngoạn mục ở Hà Nội. Lúc ấy, Mỹ có 200 máy bay ném bom B52, và đưa sang Việt Nam phân nửa để quyết đè bẹp quân dân chúng ta. Việt Nam chống B52 bằng máy bay tiêm kích MiG-17 và tên lửa phòng không SAM-2.

Việt Nam diễu binh, diễu hành kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sáng 30/4. Ảnh: Nhật Bắc.

Việt Nam diễu binh, diễu hành kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sáng 30/4. Ảnh: Nhật Bắc.

Cha tôi nói với tôi: “Chỉ cần bắn hạ được 2 chiếc B52 đã là thắng lợi”. Thế nhưng, không ngờ chúng ta đã bắn hạ tới 34 chiếc B52. Thật là thần kỳ, khi so sánh các thông số kỹ thuật. Máy bay tiêm kích MiG-17 có tốc độ 900km/h còn B52 có tốc độ 2000 km/h. Tên lửa phòng không SAM-2 do Liên Xô cung cấp, là phương tiện cũ rích sót lại sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Để đánh B52 thì phải dùng vật chất đối đầu vật chất, chứ không thể dùng tinh thần đối đầu vật chất. Người Việt Nam đã lấp đầy cán cân “vật chất thắng vật chất” trong chiến tranh bằng ý chí kiên cường, sự tính toán khôn ngoan và phương pháp tác chiến gan dạ, khéo léo. Sau 12 ngày đêm, chúng ta đã bắn đến viên đạn cuối cùng, và người Mỹ đã mất 1/3 số lượng B52 đưa sang Việt Nam. Không bên nào muốn thiệt hại nữa. Giống như hai người đều ngộp thở vì chìm trong nước, người nào chịu không nổi mà ngoi lên trước, thì người ấy thua cuộc. Người Mỹ đã ngừng dội bom.

Thân phụ của ông, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn có hai cuốn sách viết về giai đoạn chống Mỹ cứu nước là “Thư vào Nam” và “Thời thắng Mỹ”. Chắc ông từng đọc qua?

Tôi đã đọc hai cuốn sách ấy và đối chiếu với cuốn sách “Chiến tranh Việt Nam” của cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara (1916-2009). Tôi hiểu ra, vũ khí của Mỹ tinh vi bao nhiêu thì chiến lược của Mỹ lại đơn sơ bấy nhiêu. Ngược lại, vũ khí của Việt Nam đơn sơ bao nhiêu, thì chiến lược của Việt Nam lại tinh vi bấy nhiêu. Sự đối lập ấy đưa lên kết cục như nhân loại đã chứng kiến. Tôi cho rằng, hàng trăm năm nữa, thế giới còn phải nhắc đến chiến thắng của Việt Nam như một huyền thoại. Bởi lẽ, thế kỷ 20 chỉ có hai sự kiện làm thay đổi trật tự quốc tế là chiến thắng của hồng quân Liên Xô trước phát xít Đức năm 1945 và chiến thắng của quân dân Việt Nam trước đế quốc Mỹ năm 1975.

Chúng ta đã có một quá khứ thật hào hùng. Sau nửa thế kỷ hòa bình, Việt Nam tiếp tục gặt hái nhiều thành tựu rực rỡ về xóa đói giảm nghèo. Từ một tiến sĩ hạt nhân, ông đã trở thành một doanh nhân, có lúc còn làm Chủ tịch Ngân hàng...

Hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh tại Viện Nghiên cứu hạt nhân Dupna, tôi về Việt Nam và định cư TP.HCM từ năm 1989. Tôi công tác ở Viện Khoa học Việt Nam phía Nam, mà gần như chả có việc gì để làm, suốt ngày chỉ ngồi bàn giấy cho muỗi cắn. Lúc ấy, lương tiến sĩ của tôi được 60 nghìn đồng mỗi tháng, còn vợ tôi có bằng đại học nhưng làm nhân viên bán hàng ở hợp tác xã thương mại thì hưởng lương 250 nghìn đồng mỗi tháng. Gần như kinh tế gia đình do vợ tôi đảm đương, còn tôi chỉ vật vờ.

Tôi còn nhớ, mỗi buổi sáng, vợ tôi đưa 5 nghìn đồng và tôi đi bộ ra xe bánh mì trên lề đường Tú Xương để mua 5 ổ bánh mì điểm tâm cho cả nhà. Tôi cay đắng lắm. Tôi quyết tâm thoát khỏi vùng ngột ngạt đó. Tôi đề nghị cơ quan cho thành lập một mô hình gọi là “công ty đời sống” để cải thiện cơm áo cho anh em. Chúng tôi được xếp vào loại “biên chế 2”, nghĩa là vẫn nằm trong biên chế nhưng không có lương. Khi Nhà nước cho lập doanh nghiệp tư nhân, thì tôi rời biên chế luôn và bắt đầu ngụp lặn với thị trường để mưu sinh theo cách của tôi.  

 Lý lịch rất “oách” của ông có gì thuận lợi cho việc kinh doanh, so với những người khác không?

Tôi là con trai của Lê Duẩn nên dễ xây dựng nhiều mối quan hệ hơn, nhưng cũng bị “soi” nhiều hơn. Tôi phải ứng phó những thị phi và cả những lo ngại. Một số vị lãnh đạo vì nể nang cha tôi, đã gặp tôi để khuyên nhủ mọi lẽ thiệt hơn. Tôi đã thưa với ông Võ Văn Kiệt: “Nếu các chú vẫn cấm đảng viên làm kinh tế, thì cháu sẽ xin ra khỏi Đảng”. Còn ông Đỗ Mười dành một buổi ở Văn phòng Tổng Bí thư để nhắc nhở tôi đừng chệch hướng, và tôi đã tranh luận thẳng thắn: “Tại sao lại quy định đảng viên thành lập công ty tư nhân thì chỉ được phép sử dụng 13 lao động? Chúng ta dựa vào đâu để khẳng định, sử dụng 14 lao động là bóc lột kiểu tư bản mà sử dụng 13 lao động thì không bóc lột kiểu tư bản. Nếu đã bóc lột, thì bóc lột một lao động cũng xấu xa đâu khác gì bóc lột 13 lao động. Muốn bảo vệ quyền lợi người lao động, thì phải hoàn thiện Luật lao động, chứ không thể giải quyết bằng những quy định tạm thời mang tính duy ý chí”.

Ông vẫn được dư luận đánh giá cao về những ý kiến thẳng thắn, kể cả trong các hội nghị lẫn trên truyền thông. Có lần nào, ông đắn đo khi mở miệng không?

Đối với tôi, lịch sử không đơn giản là những ngày tháng đã trôi qua. Lịch sử là tài nguyên vô giá đối với mỗi dân tộc, cần được sử dụng để khơi dậy ý chí và tinh thần của đất nước. TP.HCM là một đô thị mang dấu ấn lịch sử vĩ đại, thì mỗi hành động, mỗi công trình, mỗi dự án hôm nay phải xứng đáng với lịch sử. Tôi rất yêu nhịp sống TP.HCM. Vì vậy, trong những cuộc họp mà lãnh đạo TP.HCM mời tôi tham dự, tôi luôn suy nghĩ rất nhiều.

Thành phố Hồ Chí Minh thay đổi mạnh mẽ sau 50 năm. Ảnh:The Travel.

Thành phố Hồ Chí Minh thay đổi mạnh mẽ sau 50 năm. Ảnh:The Travel.

Gần đây nhất, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên có yêu cầu tôi nói vài lời trong một dịp gặp mặt các thế hệ lãnh đạo TP.HCM. Tôi đã phát biểu ngắn gọn: “Đô thị này đóng góp 1/3 ngân sách cho đất nước, những tại sao chưa phải là thành phố đáng sống nhất, chưa phải là thành phố đáng đầu tư nhất? Tôi chỉ mong, các lãnh đạo TP.HCM trước khi đi làm mỗi ngày, hãy thắp một nén hương lên bàn thờ gia tiên mình. Tôi dám chắc trên bàn thờ gia tiên ấy, có rất nhiều linh vị các anh hùng, các liệt sĩ. Khi thắp một nén hương, xin các anh chị hứa một câu thôi, rằng “mọi chỉ đạo, mọi chữ ký đều trong sáng, không thỏa hiệp bất cứ lợi ích riêng tư gì” thì tôi tin bức tranh thành phố sẽ văn minh gấp bội, hào hiệp gấp bội, sáng tạo gấp gội, nghĩa tình gấp bội”.

Ông có thân phận đặc biệt. Không chỉ có người cha là Tổng Bí thư Lê Duẩn, ông còn có ông ngoại là thương gia Nguyễn Phú Khai làm chủ bút báo Tribune Indigène (“Diễn đàn bản xứ”) một thời vang dội miền Nam đầu thế kỷ 20, và ông có người mẹ là nhà báo Nguyễn Thụy Nga (1925-2018). Sau cuốn sách “Những khoảnh khắc sống”, ông đang ấp ủ điều gì ở tuổi 70?

Tôi vẫn luôn nghĩ về một triết lý tồn tại đích thực của người Việt Nam. Văn hóa đã giúp người Việt Nam không bị đồng hóa sau ngàn năm Bắc thuộc, nếu người Trung Quốc khắt khe “tại gia tòng phụ” thì người Việt Nam cổ vũ “con hơn cha là nhà có phúc”, nếu người Trung Quốc đòi hỏi “xuất giá tòng phu” thì người Việt Nam cơi nới “thuận vợ thuận lòng tát biển Đông cũng cạn”. Vậy thì tại sao sau nửa thế kỷ hòa bình, người Việt Nam vẫn chưa thực sự ngồi lại với nhau một cách chân thành đúng nghĩa đồng bào thấu hiểu và yêu thương?

Tôi tin chẳng có vách ngăn nào giữa người Việt Nam với người Việt Nam. Phải thiện chí hòa giải dân tộc, san bằng mọi dị biệt. Tôi cũng có trách nhiệm trong việc đó. Tôi đã chủ động hẹn gặp giáo sư Cao Lan là con gái của đại tướng chế độ cũ Cao Văn Viên (1921-2008). Bà Cao Lan không chỉ giảng dạy chuyên ngành luật kinh tế ở Mỹ, mà từng xuất bản hai tiểu thuyết “Monkey bridge” (Cầu khỉ) và “The lotus and the storm” (Hoa sen và bão tố). Thân phụ của hai người đứng đầu từng ở hai chiến tuyến, nhưng chúng tôi vẫn có thể trò chuyện cởi mở và ân cần với nhau.

Xin cảm ơn ông!

 

Lê Thiếu Nhơn

Nguồn: Báo NN&MT

Đánh giá bài viết:
(lượt đánh giá: 0, trung bình: 0)

Tổng Bí thư Tô Lâm: Tiếp tục lập nên những kỳ tích trong kỷ nguyên mới của dân tộc

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, với bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam, chúng ta đã làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, nhất định chúng ta sẽ tiếp tục giành được nhiều thành tựu vĩ đại hơn nữa, lập nên những kỳ tích trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, vươn mình của dân tộc.
Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước

Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước

Sáng 30/4, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đọc diễn văn tại Lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025). Cổng Thông tin điện tử Bộ Nông nghiệp và Môi trường trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của đồng chí Tô Lâm.

Kỷ niệm trọng thể 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Chương trình đặc biệt chào mừng 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước được truyền hình trực tiếp trên các kênh sóng của VTV.