Ngành thủy sản Việt Nam đang đối mặt với thách thức hệ thống, cần cách tiếp cận mới. Kinh tế tuần hoàn được xem là mô hình phát triển phù hợp, nâng cao hiệu quả kinh tế và giảm thiểu tác động môi trường.
Ngành thủy sản chuyển mình với mô hình kinh tế tuần hoàn
Chia sẻ tại hội thảo “Mô hình kinh tế tuần hoàn: Hiệu quả cho doanh nghiệp và môi trường” ngày 22/7, bà Lê Hằng – Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, với kim ngạch xuất khẩu đạt 9-11 tỷ USD mỗi năm, ngành thủy sản Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, tạo sinh kế cho hàng triệu người dân ven biển và nông thôn, đồng thời duy trì vị thế trong chuỗi cung ứng thủy sản toàn cầu.
Tuy nhiên, là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, thủy sản Việt Nam cũng đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức lớn, mang tính hệ thống, như: cạn kiệt nguồn lợi tự nhiên, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, chất lượng con giống chưa ổn định, chi phí đầu vào cao, áp lực từ "thẻ vàng IUU" của EU, cùng các yêu cầu khắt khe về môi trường và lao động từ các thị trường nhập khẩu. Những thách thức này đòi hỏi ngành phải thay đổi tư duy phát triển và tìm kiếm các mô hình bền vững, hiệu quả hơn.
Quá trình chế biến cá không chỉ tạo ra sản phẩm chính mà còn mở ra cơ hội tận dụng phụ phẩm để sản xuất các chế phẩm giá trị cao, phục vụ ngành dược, thực phẩm chức năng và mỹ phẩmMột trong những hướng đi tiềm năng là áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn. Hiện ngành chế biến thủy sản mỗi năm tạo ra khoảng 1 triệu tấn phụ phẩm, song chỉ khoảng 40% được tận dụng chủ yếu để sản xuất bột cá giá rẻ. Phần còn lại nếu không được xử lý đúng cách sẽ gây lãng phí lớn và nguy cơ ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Trong bối cảnh đó, kinh tế tuần hoàn được xem là mô hình phù hợp để giúp ngành nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế và đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Bà Hằng nhấn mạnh: “Kinh tế tuần hoàn giúp ngành thủy sản Việt Nam giảm phát thải, tiết kiệm tài nguyên, nâng cao giá trị sản phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu và tăng khả năng hội nhập thị trường toàn cầu”.
Trên thực tế, nhiều mô hình và giải pháp kinh tế tuần hoàn đã và đang được áp dụng trong toàn chuỗi ngành thủy sản. Trong nuôi trồng, hệ thống tuần hoàn nước khép kín (RAS) giúp giảm ô nhiễm, tiết kiệm nước và kiểm soát môi trường nuôi hiệu quả, đặc biệt trong mô hình nuôi tôm thâm canh. Các mô hình kết hợp như tôm – lúa cũng phát huy hiệu quả rõ rệt: rơm rạ sau thu hoạch được tái sử dụng làm thức ăn cho tôm, còn chất thải từ tôm lại làm phân bón cho lúa, tạo thành chu trình khép kín, thân thiện với môi trường.
Trong khâu chế biến, kinh tế tuần hoàn thể hiện rõ nhất qua việc khai thác phụ phẩm để sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng. Dù tiềm năng còn lớn, nhưng tỷ lệ khai thác phụ phẩm hiện nay mới đạt khoảng 40%, cho thấy dư địa cải thiện còn rất đáng kể.
Với việc từng bước chuyển sang tư duy kinh tế tuần hoàn, ngành thủy sản Việt Nam đang tìm thấy hướng đi bền vững hơn vừa phát triển hiệu quả, vừa đảm bảo trách nhiệm với môi trường và cộng đồng. Những công nghệ sấy thông minh, công nghệ enzyme... đang được đưa vào ứng dụng để sản xuất các sản phẩm từ phụ phẩm chế biến thủy sản. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã chủ động đầu tư, sáng tạo và dẫn đầu trong việc triển khai kinh tế tuần hoàn trong chuỗi thủy sản.
Bà Lê Hằng, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam chia sẻ về áp dụng kinh tế tuần hoàn trong ngành thủy sản Việt NamCần hoàn thiện cơ chế hỗ trợ tài chính, công nghệ
Theo bà Lê Hằng, mặc dù tiềm năng lớn, việc phát triển kinh tế tuần hoàn trong ngành thủy sản còn đối mặt với nhiều thách thức. Hầu hết doanh nghiệp thủy sản tiếp cận tín dụng dựa trên uy tín, chứ không phải các chương trình ưu đãi hay tín dụng xanh, thiếu hành lang pháp lý đồng bộ và hiệu quả, cũng như hạ tầng để xử lý chất thải hoặc chuyển giao công nghệ tuần hoàn. Các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ lẻ, chưa đầu tư mạnh vào công nghệ và kinh tế tuần hoàn như các doanh nghiệp nước ngoài.
"Để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, cần có một chiến lược rõ ràng, cùng với các cơ chế ưu đãi thuế và tín dụng xanh hiệu quả, tạo điều kiện đầu tư hạ tầng để xử lý chất thải và chuyển giao công nghệ tuần hoàn. Cần có sự đồng bộ hóa dữ liệu từ các bộ, ngành, doanh nghiệp và người dân, xây dựng nền tảng quốc gia để xác thực nguồn gốc sản phẩm, áp dụng công nghệ như blockchain để đảm bảo minh bạch và chống gian lận hiệu quả hơn", Bà Lê Hằng đề xuất.