Chính phủ vừa ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Một trong những yêu cầu quan trọng là bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, lồng ghép tối đa giữa các lĩnh vực, lấy mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia là nòng cốt trong tổng thể mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia.
Tăng dầy mật độ quan trắc
Mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia hiện có 2.839 trạm quan trắc với nhiều thành phần, bao gồm: trạm khí tượng bề mặt, trạm khí tượng trên cao, trạm ra đa thời tiết, trạm khí tượng nổng nghiệp, trạm thủy văn, trạm hải văn, trạm đo mưa, trạm định vị sét và một số loại trạm chuyên đề khác.
Theo quy hoạch, đến năm 2050, mạng lưới trạm sẽ tăng lên 5.886 trạm. Trong đó, chuyển đổi hầu hết các trạm khí tượng thủy văn sang tự động hoàn toàn theo mô hình mạng lưới trạm khí tượng thủy văn hiện đại của các nước phát triển.
Kế hoạch của Chính phủ xác định 3 nhiệm vụ thực hiện theo pháp luật về quy hoạch; 8 nhiệm vụ hoàn thiện văn bản pháp luật, cơ chế chính sách; cùng 15 dự án ưu tiên đầu tư cho các giai đoạn từ 2021 – 2030.
Kiểm tra trạm khí tượng tự động chuyên dùng. Ảnh: Cục Khí tượng Thủy văn.Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với các bộ, ngành liên quan, các địa phương tiếp tục thực hiện đầu tư các dự án đã xác định nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025. Các dự án dự kiến đầu tư trong giai đoạn 2026-2030 hoặc sau năm 2030 sẽ lấy từ nguồn đầu tư công và nguồn khác ngoài ngân sách nhà nước.
Việc đầu tư các dự án kết hợp cả phát triển mới, hoàn thiện các trạm khí tượng thủy văn với việc nâng cấp, bổ sung và hiện đại hóa trang thiết bị quan trắc hiện có theo hướng tự động, hiện đại. Trong đó, tập trung hoàn thiện các trạm khí tượng thủy văn cơ bản theo các tiêu chí trong quy hoạch. Đây là những trạm nền, đóng vai trò nòng cốt trên mạng lưới và phản ánh đặc trưng khí tượng, thủy văn, hải văn của vùng hoặc lưu vực sông, có quan trắc viên.
Đối với các trạm khí tượng thủy văn phổ thông - đóng vai trò tăng dầy mật độ quan trắc - sẽ đầu tư 100% trạm quan trắc tự động. Kế hoạch ưu tiên phát triển mới và nâng cấp hệ thống các trạm ra đa thời tiết tại khu vực thường xuyên xảy ra mưa, lũ, bão, sạt lở đất; tăng dày mật độ trạm tự động tại các vùng, khu vực thường xuyên chịu tác động của các loại hình thiên tai khí tượng thủy văn, khu vực ven biển và hải đảo, vùng trống số liệu quan trắc.
Các dự án đầu tư cũng tập trung nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin và công nghệ dự báo, hiện đại hóa hệ thống cơ sở dữ liệu và chuyển đổi số ngành khí tượng thủy văn. Đồng thời, ưu tiên nâng cấp hệ thống kiểm định phương tiện đo khí tượng thủy văn.
Các đơn vị tác nghiệp trực thuộc Cục khí tượng thủy văn, các Đài Khí tượng Thủy văn khu vực, Đài tỉnh và các trạm khí tượng thủy văn để bảo đảm phục vụ hiệu quả, thông suốt công tác quản lý, điều hành, tác nghiệp khí tượng thủy văn từ trung ương đến địa phương.
Thứ tự ưu tiên bố trí vốn
Nguồn vốn thực hiện Quy hoạch lấy sẽ được trích ưu tiên bố trí vốn ngân sách nhà nước; lồng ghép trong các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình, kế hoạch, dự án khác để nâng cấp, phát triển mới các trạm khí tượng thủy văn quốc gia, đặc biệt là các trạm tại khu vực biên giới, hải đảo; vùng sâu vùng xa, vùng có mạng lưới trạm khí tượng thủy văn còn thưa, vùng thường xuyên xảy ra thiên tai.
Các dự án sẽ được ưu tiên bố trí vốn trước nếu đã và đang thực hiện trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn trước (bao gồm các dự án hoàn thành và bàn giao đưa vào sử dụng trước năm 2026; các dự án chuyển tiếp sang giai đoạn 2026-2030).
Tiếp đến là các dự án đã lập, trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư. Cuối cùng là các dự được xác định có tính khả thi cao, các dự án trọng tâm, trọng điểm để đưa vào kế hoạch khởi công mới giai đoạn 2026-2030.
Quan trắc viên Trạm Khí tượng Hải văn Đảo Hòn Dấu tại Đồ Sơn, Hải Phòng, quan trắc mực nước biển. Ảnh: Cục Khí tượng Thủy văn.Trong trường hợp cần thiết đầu tư sớm để phục vụ theo yêu cầu cấp bách và huy động bố trí được đầy đủ các nguồn lực để thực hiện, cơ quan được giao chủ trì thực hiện dự án đề xuất với cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét, chấp thuận cho đầu tư giai đoạn sớm hơn so với kế hoạch. Chính phủ cũng giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường chịu trách nhiệm xem xét việc thực hiện các dự án, nhất là các dự án ưu tiên bảo đảm hiệu quả, khả thi theo đúng quy định và không để xảy ra thất thoát, lãng phí.
Ngoài nguồn ngân sách, Chính phủ yêu cầu thu hút nguồn vốn xã hội hoá để tăng dày mật độ các trạm đo tự động, phục vụ dự báo, cảnh báo KTTV, phòng chống thiên tai và giám sát hồ chứa. Các dự án có thể huy động các nguồn vốn từ vốn vay ưu đãi, vốn viện trợ không hoàn lại, vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, vốn dự phòng ngân sách nhà nước, Quỹ phòng, chống thiên tai và các nguồn hợp pháp khác theo quy định pháp luật hiện hành có liên quan.
Khuyến khích, đẩy mạnh và huy động các nguồn xã hội hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia đầu tư, quản lý, vận hành và khai thác mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia.
Trong quá trình xây dựng, triển khai các dự án cụ thể, bao gồm cả các dự án chưa được xác định trong danh mục dự án ưu tiên đầu tư, cơ quan có thẩm quyền chấp thuận hoặc quyết định chủ trương đầu tư xác định vị trí, diện tích, mục tiêu, quy mô, công suất dự án, phân kỳ đầu tư các công trình, dự án phù hợp với khả năng huy động nguồn lực, yêu cầu thực tiễn và theo đúng các quy định pháp luật hiện hành có liên quan.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp với các địa phương và các cơ quan có liên quan rà soát nhu cầu sử dụng đất, phân kỳ đầu tư phù hợp với Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất quốc gia.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Để thúc đẩy tiến trình tự động hóa quan trắc khí tượng thủy văn, Kế hoạch của Chính phủ đặt ra các giải pháp phát triển nguồn nhân lực của ngành. Trước hết là đổi mới chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo nhân lực khí tượng thủy văn theo hướng đào tạo nhiều loại hình quan trắc, tích hợp đa mục tiêu và một số chuyên ngành chuyên sâu về kỹ thuật.
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tại các trạm khí tượng thủy văn để phục vụ chuyển đổi nhân lực tại từ các trạm phổ thông sang các trạm cơ bản hoặc bổ sung nhân lực cho các Đài Khí tượng Thủy văn khu vực, tỉnh và đơn vị khí tượng thủy văn tại Trung ương. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ về tự động hóa, công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, dữ liệu khí tượng thủy văn; bảo trì, bảo dưỡng, khai thác, sửa chữa trang thiết bị khí tượng thủy văn; bố trí, sắp xếp nhân lực hài hòa, hợp lý, bảo đảm nhất quán trong quá trình tự động hóa mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia.
Công tác mở rộng liên kết đào tạo với các tổ chức trong, ngoài nước và trao đổi kinh nghiệm quốc tế cũng rất quan trọng, là tiền đề để cán bộ ngành nâng cao trình độ, làm chủ công nghệ quan trắc tiên tiến phục vụ đất nước.
Theo Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đến năm 2030, mật độ bình quân trên toàn mạng lưới đạt mức ngang bằng với các nước phát triển khu vực châu Á (khí tượng bề mặt đạt 840 km2/trạm, đo mưa độc lập 80 km2/trạm, bức xạ 18.000 km2/trạm, định vị sét 14.000 km2/trạm, ô zôn - bức xạ cực tím 82.000 km2/trạm, thủy văn 650 km2/trạm/lưu vực, hải văn 70 km/trạm dọc theo bờ biển, ra đa biển 200 km/trạm dọc theo bờ biển, trạm phao 650km/trạm dọc theo bờ biển). Đến năm 2050, mạng lưới trạm sẽ tăng lên 5.886 trạm. Trong đó, chuyển đổi hầu hết các trạm khí tượng thủy văn sang tự động hoàn toàn theo mô hình mạng lưới trạm khí tượng thủy văn hiện đại của các nước phát triển. |