Cùng ĐBSCL ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu: Đầu tư cho thủy lợi đúng, rủi ro thiên tai giảm

10:15 19/09/2025

Công nghệ dự báo hiện đại giúp Đồng bằng sông Cửu Long chủ động nguồn nước, giảm thiểu rủi ro thiên tai, bảo đảm sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh bền vững.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất đặc biệt của Việt Nam, nơi có hệ thống sông, kênh chằng chịt, đan xen nhau tạo nên những cánh đồng trù phú, nuôi sống hàng chục triệu người. Tuy nhiên, chính lợi thế ấy lại ẩn chứa nhiều rủi ro khi vùng đất này thường xuyên phải đối mặt với những loại hình thiên tai riêng biệt, khác hẳn với nhiều khu vực khác trên cả nước.

Công nghệ dự báo ngày càng hiện đại

PGS.TS Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam cho biết, các yếu tố khí hậu, thủy văn sông Mekong, thủy triều biển Đông, biển Tây, cộng với địa hình thấp và mạng lưới sông, kênh dày đặc, khiến ĐBSCL trở thành vùng chịu tác động tổng hợp và phức tạp, nhất là các thiên tai liên quan đến nước. Hạn mặn, ngập lụt, suy giảm nguồn nước, xâm nhập mặn, sụt lún, sạt lở bờ sông, bờ biển… đều hiện diện tại nơi đây, đe dọa trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân.

Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam cho biết, muốn chủ động ứng phó trước thiên tai thì trước hết phải dự báo được nguy cơ. Công tác dự báo sớm không chỉ giúp các nhà quản lý hoạch định chính sách, mà còn hỗ trợ nông dân chuẩn bị giải pháp cụ thể, giảm thiểu thiệt hại.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan khi làm Bộ trưởng Bộ NN-PTNT cùng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam kiểm tra bờ biển Ba Trị (Bến Tre cũ). Ảnh: Nguyễn Thủy.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan khi làm Bộ trưởng Bộ NN-PTNT cùng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam kiểm tra bờ biển Ba Trị (Bến Tre cũ). Ảnh: Nguyễn Thủy.

Với vai trò là cơ quan khoa học công nghệ đầu ngành của Bộ Nông nghiệp và Môi trường khu vực phía Nam, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam nhiều năm qua đã triển khai hàng loạt công trình nghiên cứu về khai thác các mặt lợi của nước và phòng tránh tác hại từ nước. Đặc biệt, là công tác dự báo chuyên ngành đã được Viện triển khai thành công, bao gồm:

Dự báo nguồn nước thượng lưu Mekong về ĐBSCL: được dự báo quanh năm, với hạn ngắn, trung và dài để phục vụ sản xuất và phòng chống thiên tai.

Dự báo thủy triều ven biển ĐBSCL: Cung cấp dữ liệu theo từng giờ trước cả năm, tạo nền tảng cho dự báo xâm nhập mặn, ngập triều và ngập lũ.

Dự báo nhu cầu nước và sản xuất: Giúp điều tiết hệ thống thủy lợi, lên kế hoạch sản xuất và bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý.

Dự báo xâm nhập mặn: Là dự báo then chốt, hỗ trợ đánh giá nguồn nước ngọt, từ đó đưa ra giải pháp ứng phó phù hợp từng vùng, từng thời điểm.

Dự báo ngập nước và triều cường: Cảnh báo rủi ro trong mùa mưa lũ, làm cơ sở xây dựng kế hoạch chống ngập, bảo vệ sản xuất nông nghiệp.

Dự báo bùn cát, phù sa và sạt lở: Cung cấp cơ sở khoa học cho nghiên cứu, đề xuất giải pháp ổn định bờ sông, bờ biển, giảm thiểu thiên tai.

Những dự báo này không chỉ là con số kỹ thuật khô khan mà đã trở thành công cụ gắn chặt với thực tiễn, góp phần bảo đảm mùa vụ, ổn định dân sinh và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng.

“Các bản tin dự báo chuyên ngành do Viện phát hành không chỉ tập trung vào hỗ trợ phòng chống thiên tai hàng năm mà còn bao quát các kịch bản thời gian tương lai (hàng chục năm tới), tạo nền tảng để Viện đề xuất với Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các địa phương các giải pháp xây dựng mới và nâng cấp hạ tầng thủy lợi, nhằm chủ động thích ứng với những thách thức thiên tai ngày càng phức tạp tại ĐBSCL”, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam cho hay.

Để làm được điều này, Viện sử dụng mô hình thủy văn tự phát triển kết hợp với phần mềm MIKE của Đan Mạch, mô hình triều Utide của Mỹ và nhiều công cụ phụ trợ khác. Quan trọng hơn, các mô hình này được hiệu chỉnh bằng dữ liệu thực tiễn phong phú, cùng kinh nghiệm dự báo nhiều năm, nhờ vậy kết quả đưa ra luôn có độ tin cậy cao.

Hiện tại, Viện đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới như viễn thám và trí tuệ nhân tạo (AI) để nâng cao độ chính xác, đặc biệt trong các bài toán khó như dự báo thời gian có nước ngọt, mức độ xâm nhập mặn hay nguy cơ ngập úng. Đồng thời, việc xây dựng cơ sở dữ liệu lớn (big data) cho toàn vùng ĐBSCL đang được xúc tiến, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho các mô hình dự báo tiên tiến trong tương lai.

Dự báo thông minh, đa ngành

“Hằng năm, công tác dự báo chuyên ngành về nguồn nước, xâm nhập mặn được Viện triển khai từ nửa sau mùa mưa và kéo dài suốt mùa khô. Các bản tin dự báo đã cung cấp thông tin chi tiết giúp các địa phương quyết định khi nào cần trữ nước, khi nào có thể lấy bổ sung. Trong nhiều tình huống đột xuất, Viện còn trực tiếp tư vấn chuyên môn, tính toán để điều chỉnh lịch vận hành công trình, thậm chí xác định vị trí, thời gian đắp đập tạm ứng cứu khẩn cấp”, PGS.TS Trần Bá Hoằng nhấn mạnh.

Công tác dự báo sớm được đưa vào các chỉ đạo sản xuất mùa vụ các tỉnh ĐBSCL. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Công tác dự báo sớm được đưa vào các chỉ đạo sản xuất mùa vụ các tỉnh ĐBSCL. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Chính sự linh hoạt này, giúp ĐBSCL không bị động trước bất thường của thiên tai, đồng thời củng cố vai trò của khoa học thủy lợi trong phát triển bền vững vùng đất này.

Các dự báo chuyên ngành của Viện là nhiệm vụ được Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt hàng, mang tính pháp lý cao, được kiểm chứng nghiêm ngặt. Kết quả dự báo hằng năm đều được Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi thẩm định, đồng thời lấy ý kiến phản hồi từ các địa phương để hoàn thiện. Nhờ vậy, trong nhiều năm liền, dự báo của Viện được đánh giá cao nhờ tính chính xác và phù hợp thực tế.

Công tác dự báo của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam chính là “người bạn đồng hành thầm lặng” của nông dân và chính quyền ĐBSCL. Những bản tin dự báo, những mô hình toán học, hay những con số tính toán đã trở thành nền tảng để hoạch định chính sách, tổ chức sản xuất, bảo vệ an toàn đời sống dân sinh.

Trong tương lai, khi trí tuệ nhân tạo, công nghệ viễn thám ngày càng phát triển, công tác dự báo sẽ tiếp tục nâng lên tầm cao mới, trở thành “lá chắn” khoa học vững chắc, không chỉ góp phần giảm thiểu rủi ro, bảo đảm sản xuất nông nghiệp bền vững, mà còn là nền tảng để ĐBSCL vững bước trước những thách thức ngày càng phức tạp của biến đổi khí hậu và thiên tai.

“Chúng tôi đang từng bước xây dựng bộ công cụ dự báo toàn diện, không chỉ nhìn vào hiện tại mà còn tính tới tương lai hàng chục năm. Đây sẽ là cơ sở để đề xuất những công trình thủy lợi mới, hay nâng cấp hạ tầng hiện có, giúp ĐBSCL chủ động thích ứng với mọi kịch bản thiên tai”, PGS.TS Trần Bá Hoằng chia sẻ.

Nguyễn Thủy - Phúc Lập