Việt Nam đặt kỳ vọng đưa đấu tranh sinh học từ mô hình thử nghiệm vào sản xuất đại trà, giảm phụ thuộc hóa chất, đáp ứng nhu cầu sản xuất xanh.
Tại cuộc họp tham vấn kỹ thuật về phát triển đấu tranh sinh học tại Việt Nam chiều 15/9, ông Nguyễn Văn Liêm, Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật, cho rằng chỉ khi giải pháp sinh học được sản xuất quy mô lớn, giá thành hợp lý, tiện dụng với nông dân thì mới thực sự thay thế được hóa chất trên đồng ruộng.
Theo ông Liêm, nhu cầu ứng dụng các tác nhân sinh học ở Việt Nam hiện nay rất lớn. Nhiều nông dân sẵn sàng lựa chọn biện pháp thân thiện với tự nhiên nếu sản phẩm đáp ứng đủ tiêu chí về chất lượng, hiệu quả và độ thuận tiện. Tuy nhiên, muốn thuyết phục người sản xuất, giải pháp sinh học cần vượt qua rào cản quan trọng nhất: khả năng nhân nuôi số lượng lớn, giá thành phải chăng và dễ bảo quản.
Ông nhấn mạnh, thay vì dàn trải vào nhiều đối tượng gây hại, đấu tranh sinh học nên tập trung trước hết vào sâu cuốn lá nhỏ và sâu đục thân lúa. Đây là 2 nhóm gây hại phổ biến, có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng lúa - ngành hàng lương thực chiến lược của Việt Nam.
Từ các mô hình này, hệ thống giải pháp có thể mở rộng sang các cây trồng khác, đồng thời tạo niềm tin cho nông dân vào tính khả thi của biện pháp sinh học.
Viện Bảo vệ thực vật đã có một số phương pháp ứng dụng tác nhân sinh học trong mô hình công nghệ cao như nhà lưới, nhà kính. Kết quả bước đầu tích cực, song để mở rộng sang hàng nghìn ha sản xuất ngoài đồng ruộng thì còn nhiều thách thức.
“Xây dựng mô hình 5-10 ha thì dễ, nhưng khi mở rộng quy mô hàng nghìn ha lại vướng bài toán đồng đều về chất lượng và tính ổn định của sản phẩm", ông Liêm phân tích.
Cây ăn quả có múi cũng là một hướng đi tiềm năng. Lãnh đạo Viện Bảo vệ thực vật cho biết, tình trạng suy thoái vườn trồng, dịch hại phức tạp tạo ra dư địa lớn cho tác nhân sinh học quy mô công nghiệp. Điều quan trọng là phải cải tiến công nghệ bảo quản, để sản phẩm giữ được độ tinh khiết và thời gian sử dụng đủ dài, giúp nông dân dễ tiếp cận.
Đấu tranh sinh học là phương pháp bảo vệ cây trồng bằng cách sử dụng những sinh vật có lợi (như côn trùng thiên địch, vi sinh vật, nấm, vi khuẩn, tuyến trùng…) hoặc các chế phẩm sinh học để khống chế sâu bệnh hại.
Nhờ những biện pháp thay thế phun thuốc hóa học này, người nông dân có thể chủ động đưa “kẻ thù tự nhiên” của sâu bệnh vào đồng ruộng, giúp cây trồng được bảo vệ an toàn hơn, môi trường ít ô nhiễm và nông sản cũng an toàn cho người tiêu dùng.
Dù vậy, ứng dụng thiên địch ở Việt Nam đôi khi còn gặp rào cản. Ông Nguyễn Đức Tùng, Học viện Nông nghiệp Việt Nam nêu ví dụ, một số loài được phép nhập khẩu hoặc thả ra môi trường lại thuộc thẩm quyền quản lý của Cục Chăn nuôi và Thú y, thay vì Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật. Nếu không thống nhất, sẽ gây khó cho nhà khoa học và doanh nghiệp.
Ông cũng cảnh báo, có những loài dịch hại nguy hiểm như ngài đục quả cà chua đang có nguy cơ xâm nhập, nhưng thiên địch hiệu quả lại chưa được cấp phép kịp thời, giá thành còn cao so với mặt bằng chung về khả năng nhân nuôi.
Theo ông Tùng, quy mô sản xuất lớn đòi hỏi quy trình chuẩn để đảm bảo sản phẩm đồng nhất, tinh khiết và phù hợp với thiết bị hiện có của nông dân. Nếu không, khi đưa vào thực tế, hiệu quả sẽ giảm, dẫn đến tâm lý nghi ngờ với giải pháp sinh học.
Ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cho rằng xu thế sản xuất xanh, thân thiện với môi trường là không thể đảo ngược. Qua bản ghi nhớ hợp tác với Tổ chức CAB International (CABI), ông kỳ vọng Việt Nam sẽ sớm xây dựng, phát triển một chương trình quốc gia về đấu tranh sinh học.
Trong đó, Viện Bảo vệ thực vật sẽ làm đầu mối, phối hợp với Cục và Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS), cùng các đối tác quốc tế như CABI, để xây dựng chương trình dài hạn. Đây là nền tảng để huy động nguồn lực, khắc phục tình trạng các dự án nhỏ lẻ, thiếu tính bền vững.
Đại diện CABI, bà Chin Sing Yun, Giám đốc quốc gia CABI tại Malaysia, khẳng định muốn tìm được nguồn tài trợ, Việt Nam cần có chiến lược rõ ràng, thông tin đầy đủ và lộ trình cụ thể. CABI cam kết sẵn sàng chia sẻ kho dữ liệu phong phú từ các quốc gia khác, cũng như hỗ trợ Việt Nam xây dựng mô hình “bệnh viện cây trồng” - nơi nông dân có thể được tư vấn, hướng dẫn về cách nhận biết và phòng trừ dịch hại theo phương pháp sinh học.
“Điểm mấu chốt là phải xác định rõ Việt Nam cần gì, từ đó thiết kế chương trình phù hợp,” bà nói.
Chuyên gia Muhammad Faheem của CABI nói thêm, rằng các mô hình vi sinh vật của Việt Nam hiện mới dừng ở mức thử nghiệm, cần nâng tầm quy mô công nghiệp. Ông dẫn ví dụ về Trung Quốc, nơi đã phát triển công nghệ nhân nuôi thiên địch quy mô lớn. Nếu được hợp tác, chuyển giao với những quốc gia giàu kinh nghiệm, Việt Nam có thể rút ngắn đáng kể thời gian để đưa sản phẩm ra thị trường.
Đồng tình với quan điểm này, Viện trưởng Nguyễn Văn Liêm nhấn mạnh đấu tranh sinh học không phải ý tưởng mới, nhưng đang đứng trước cơ hội lớn để khẳng định vị thế.
“Vấn đề là phải chọn được phương pháp có thể nhân nuôi với số lượng lớn, giá thành hợp lý và phù hợp với điều kiện sử dụng của người dân. Nếu không đáp ứng được, sản phẩm sinh học chỉ dừng ở nghiên cứu trong phòng thí nghiệm”, ông nói.
Ông cũng cho rằng việc phát triển các biện pháp sinh học không chỉ giúp giảm phụ thuộc vào hóa chất, mà còn là giải pháp chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. Các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản hay Hoa Kỳ đều siết chặt dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (MRL), trong khi biện pháp sinh học lại đáp ứng tốt yêu cầu về an toàn và phát thải thấp.
“Đấu tranh sinh học sẽ là xương sống trong nhiều ngành hàng nông sản chủ lực. Nhưng để đi xa, chúng ta phải giải quyết được đồng thời hai yêu cầu: quy mô công nghiệp và chính sách hỗ trợ. Nếu làm được, nông dân sẽ sẵn sàng thay đổi và nông sản Việt sẽ có chỗ đứng vững chắc hơn”, ông Liêm khẳng định.
Đấu tranh sinh học là một trong những nội dung hợp tác giữa Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật với CABI trong thời gian tới, bên cạnh nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật thông qua đào tạo và chuẩn hóa quy trình giám định, giám sát dịch hại, cũng như xây dựng và trình các đề xuất hợp tác quốc tế để huy động nguồn lực tài chính, kỹ thuật. Với riêng đấu tranh sinh học, các bên liên quan thống nhất sẽ khôi phục và phát triển các trung tâm đấu tranh sinh học ở địa phương. Cùng với đó, tăng cường ứng dụng giải pháp dựa trên tự nhiên trong BVTV cho cây trồng. |
Bảo Thắng